Địa lý
Vị trí: Nằm ở vị trí trung tâm tỉnh, phía bắc giáp huyện Nam Sách, phía đông giáp các huyện Kim Thành và Thanh Hà, phía tây giáp huyện Cẩm Giàng, phía nam giáp huyện Gia Lộc, phía đông nam giáp hai huyện Thanh Hà và Tứ Kỳ. Thành phố Hải Dương nằm cách Thủ đô Hà Nội 57 km về phía tây, cách thành phố Hải Phòng 45 km về phía đông.
Thủy văn: Các sông lớn chảy qua có: Sông Thái Bình đi qua giữa thành phố, ở phía nam có sông Sặt, chi lưu sông Thái Bình. Sông Kinh Thày ở phía đông phân định xã Ái Quốc (TP Hải Dương) và xã Lai Vu (Kim Thành).
Ngoài ra, còn có các hồ điều hòa: Bạch Đằng và Bình Minh, là những hồ lớn của thành phố.
Diện tích: 7.138,60 ha.
Dân số: 279.291 người. [2]
Quá trình hình thành: [3]. Thành phố Hải Dương được khởi lập từ năm 1804 dưới tên gọi Thành Đông.
Trước năm 1804, Lỵ sở Hải Dương được đặt tại Lạc Thiên (Chí Linh), lúc ấy gọi là thành Vạn hay doanh Vạn. Sau đó rời về Mao Điền (Cẩm Giàng).
Năm 1804 (năm Gia Long thứ ba), để củng cố bộ máy cai trị, nhà Nguyễn đã phân chia lại địa giới hành chính của cả nước, do vậy Lỵ sở Hải Dương đã được rời từ Mao Điền về vùng ngã ba sông Thái Bình và sông Sặt, thuộc địa phận ba xã Hàn Giang, Hàn Thượng và Bình Lao. Tỉnh lỵ mới cách Kinh đô Huế 1.097 dặm. Tổng đốc Trần Công Hiến là người khởi công xây dựng thành, gọi là Thành Đông, với mục tiêu vừa là trấn thành, vừa án ngữ phía đông Kinh thành Thăng Long. Trong thành không có dân, chỉ có quan lại và quân lính.
Năm 1866 (năm Tự Đức thứ 19), Đông Kiều phố được hình thành (Phường Trần Phú và một phần phường Trần Hưng Đạo ngày nay), nhiều phố nghề ra đời như Hàng Giày (Sơn Hòa ngày nay), Hàng Đồng (Đồng Xuân), Hàng Bạc (Xuân Đài), Hàng Lọng (Tuy An).
Năm 1889, Thành Đông bị thực dân Pháp phá bỏ để lấy mặt bằng xây dựng Nhà máy Rượu và vài tòa dinh thự của người Pháp.
Năm 1923, Toàn quyền Đông Dương quyết định thành lập thành phố Hải Dương. Không gian thành phố được chia thành hai khu vực: khu hành chính - nằm ven sông Sặt và khu kinh tế - từ Nhà máy Rượu đến Nhà ga xe lửa. Các công sở và dinh thự của quan chức người Pháp được tập trung ven sông Sặt. Một số tòa dinh thự mang kiến trúc Pháp hiện nay vẫn còn được sử dụng như dinh Công sứ (nhà làm việc và nhà khách Tỉnh ủy); Sở Lục bộ (Sở Giao thông); nhà Séc-tây (Sở Thể dục- Thể thao cũ), Kho bạc (Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh), dinh Phó sứ (Sở Văn hóa - Thể thao & du lịch)... Với vị trí thuận lợi về giao thông và phát triển kinh tế, văn hóa; thành phố Hải Dương đã trở thành một trong 4 thành phố quan trọng nhất của Bắc Kỳ (cùng TP Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định).
Tháng 3 năm 1947, nhà cầm quyền Pháp chia thành phố Hải Dương thành 2 quận, rồi sau đó một thời gian lại chuyển thành thị xã.
Ngày 30-10-1954, thị xã Hải Dương được giải phóng hoàn toàn. Sau khi giải phóng, thị xã được chia làm 3 khu phố: Bắc Sơn, Bạch Đằng và Chi Lăng; mỗi khu phố có một số đường phố và xóm nhỏ.
Năm 1959, thị xã được tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng và quy hoạch đô thị với quy mô dân số từ 40.000 đến 50.000 người.
Từ 1968 tới năm 1996 là tỉnh lị tỉnh Hải Hưng.
Năm 1969, thị xã Hải Dương được mở rộng, sáp nhập thêm các xã Ngọc Châu (Nam Sách), Thanh Bình, Tứ Minh, Việt Hòa (Cẩm Giàng), Hải Tân (Gia Lộc).
Năm 1981, các phường Trần Phú, Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Phạm Ngũ Lão được thành lập.
Từ ngày 6 tháng 11 năm 1996, trở lại là tỉnh lị tỉnh Hải Dương.
Năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định 64/CP thành lập các phường Thanh Bình, Cẩm Thượng, Hải Tân, Ngọc Châu, Bình Hàn và tách một số khu dân cư của phường Trần Phú để thành lập phường Lê Thanh Nghị.
Ngày 6 tháng 8 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định 88/CP thành lập thành phố Hải Dương và là đô thị loại III với 11 phường, 2 xã.
Ngày 1 tháng 7 năm 2008, thành phố sáp nhập thêm các xã Nam Đồng, An Châu, Ái Quốc, Thượng Đạt (Nam Sách), 38 ha của thị trấn Lai Cách (Cẩm Giàng), các xã Tân Hưng, Thạch Khôi (Gia Lộc) và một phần thôn Ngọc Lặc, xã Ngọc Sơn (Tứ Kỳ). Như vậy, sau khi được điều chỉnh địa giới hành chính thành phố có 19 phường, xã (13 phường, 6 xã).
Ngày 17 tháng 5 năm 2009, thành phố có quyết định trở thành đô thị loại 2.
Ngày 23 tháng 9 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính phường và thành lập các phường Nhị Châu và Tân Bình thuộc TP Hải Dương [4].
Ngày 30/10
Đây là ngày gắn liền với các sự kiện lớn trong năm 2009 của thành phố Hải Dương: Kỷ niệm 205 năm khởi lập Thành Đông, 55 giải phóng thành phố Hải Dương, và Lễ công bố quyết định thành phố Hải Dương trở thành đô thị loại II.
Hành chính
Thành phố Hải Dương hiện có 15 phường:
* Bình Hàn
* Cẩm Thượng
* Hải Tân
* Lê Thanh Nghị
* Nhị Châu
* Ngọc Châu
* Nguyễn Trãi
* Phạm Ngũ Lão
* Quang Trung
* Tân Bình
* Thanh Bình
* Trần Hưng Đạo
* Trần Phú
* Tứ Minh
* Việt Hòa
Và 6 xã
* Ái Quốc
* An Châu
* Nam Đồng
* Tân Hưng
* Thạch Khôi
* Thượng Đạt
* Địa điểm tham quan, giải trí
- Công viên Bạch Đằng
- Quảng trường Độc Lập (Ngã 5 Bách hóa Tổng Hợp)
- Quảng trường 30 tháng 10 (ĐTM Tây Hải Dương)
- Khu sinh thái Hà Hải.
- Nước khoáng nóng Thạch Khôi.
- Các tuyến phố thương mại
* Di tích lịch sử
Thành Hải Dương:[10] Thành được xây từ năm 1804, đặt tại tổng Hàn Giang (nay là thành phố Hải Dương), nhằm bảo vệ Lị sở Hải Dương sau khi được chuyển từ Mao Điền về.
Thành có hình 6 cạnh, chu vi 551 trượng 6 thước, cao 1 trượng 1 thước 2 tấc, mở 4 cửa. Ban đầu thành được đắp bằng đất, đến năm 1824 (năm Minh Mạng thứ 5), thành được xây thêm bằng đá ong (kiểu xây này cũng được thấy ở thành Bắc Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An), có sống khế. Năm Tự Đức thứ 19 (1865), đắp thêm thành Dương Mã ở các cửa, hình chóp nón úp vào hào trước cửa thành, cao 5 thước 4 tấc, hào rộng 3 trượng 3 thước, sâu 6 thước.
Thành đã bị phá hủy trong chiến sự 1946-54, ngày nay vẫn còn sót lại một số ít đoạn tường thành và dinh Tổng Đốc ở trụ sở của Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hải Dương